Chiến công trong Thế chiến II Thần_phong

Hoàn cảnh

Trong những năm đầu của thập niên 1940 khi hạm đội Mỹ khống chế Thái Bình Dương, những cuộc đụng độ giữa hải quân Nhật-Mỹ liên tục diễn ra, đặc biệt là sau trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 với thắng lợi thường thuộc về người Mỹ vì Mỹ có ưu thế lớn về hải quânkhông quân. Những thất bại đó mà đỉnh điểm là trận Hải chiến biển Philippines đã khiến quân Nhật nghĩ đến những phương sách khác, trong bối cảnh đó bộ tham mưu Nhật đã nghĩ đến những cuộc tấn công cảm tử để tái lập thế quân bình lực lượng. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng này là chỉ huy trưởng căn cứ Nhật Tateyama tuy không được chấp thuận nhưng ý kiến này đã được bảo lưu và nghiên cứu.

Từ những năm 1943-1944, lực lượng Hoa Kỳ ngày càng tiến đến gần chính quốc Nhật. Các chiến đấu cơ Nhật ngày càng lỗi thời và thua kém về số lượng so với phi cơ Mỹ, đặc biệt là các máy bay F6F HellcatF4U Corsair. Không lực Hải quân Nhật (IJNAS) bị tiêu hao trong các trận không chiến chống lại Đồng Minh tại Quần đảo Solomon và đảo New Guinea. Thêm nữa, trong trận chiến trên biển Philippine, Nhật mất hơn 400 máy bay trên tàu sân bay và phi công. Số phi công giàu kinh nghiệm ngày càng trở nên hiếm hoi. Bệnh tật nhiệt đới, cũng như thiếu phụ kiện và xăng dầu, khiến cho hoạt động của IJNAS ngày càng trở nên khó khăn.

Sau Trận chiến đảo Saipan ngày 15 tháng 4 năm 1944, đảo này thất thủ, khiến cho Hoa Kỳ giành được một căn cứ tiền đồn để từ đó tung các Siêu pháo đài bay B-29 Superfortress đánh vào nội địa Nhật Bản. Từ khi mất Saipan, bộ chỉ huy Nhật tiên đoán Mỹ sẽ tìm cách đánh chiếm Philippines, có vị trí quan trọng chiến lược vì vị trí án ngữ các mỏ dầu ở Đông Nam Á và Nhật Bản.

Những chiếc máy bay Zero

Cuộc tấn công cảm tử phối hợp đầu tiên được tiến hành vào ngày 5 tháng 7 năm 1944 với 9 chiếc khu trục cơ Zero và 8 oanh tạc cơ từ căn cứ Iwo Jima. Kết quả thu được không như mong muốn khi 12 chiếc bị hạm đội Mỹ bắn hạ, 5 chiếc trở về an toàn. Ngày 15 tháng 10 năm 1944, Đô đốc Masabumi Arima cùng một hạm đội nhỏ đụng độ với hải quân Mỹ ngoài khơi Philippines và thất bại thảm hại.

Ngày 17 tháng 10 năm 1944, lực lượng Đồng Minh tấn công đảo Suluan, bắt đầu trận vịnh Leyte. Đệ nhất hạm đội không quân Hải quân Đế quốc Nhật Bản đóng tại Manila được giao nhiệm vụ hộ tống các tàu Nhật làm nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng Đồng Minh trên Vịnh Leyte. Tuy nhiên, Đệ nhất hạm đội khi đó chỉ có 40 máy bay: 34 Mitsubishi Zero trên tàu sân bay, 3 máy bay phóng lôi Nakajima B6N Tenzan ("Jill"), 1 Mitsubishi G4M ("Betty") và 2 máy bay ném bom Yokosuka P1Y Ginga ("Frances"), cộng với 1 máy bay trinh sát. Nhiệm vụ được giao xem như vượt quá sức Đệ nhất hạm đội không quân. Chỉ huy hạm đội, Phó Đô đốc Takijiro Onishi quyết định thiết lập một lực lượng đặc nhiệm cảm tử, Đội công kích đặc biệt. Trong cuộc họp tại Sân bay Mabalacat (mà người Mỹ gọi là sân bay Clark) gần Manila, ngày 19/10, Onishi tuyên bố với các sĩ quan đoàn bay 201: "Tôi không thấy có cách nào tiến hành chiến dịch (bảo vệ Philippines), ngoài cách gắn một quả bom 250kg lên một chiếc máy bay Zero rồi đâm thẳng vào một hàng không mẫu hạm Mỹ, loại nó ra khỏi vòng chiến đấu trong một tuần."

Quan điểm của Onishi dựa trên 2 tính toán: Một là việc tấn công cảm tử sẽ giúp tỷ lệ đánh trúng đích cao hơn (phi công không cần căn chỉnh góc tầm, giảm tốc độ khi ném bom mà chỉ cần lái máy bay lao thẳng hết tốc độ vào tàu địch). Hai là các phi công cảm tử sẽ không cần lái máy bay quay về, nên cự ly tấn công của máy bay sẽ xa hơn gấp đôi, gây bất ngờ cho hạm đội địch đang ở xa.

Chiến thuật Kamikaze được xây dựng dựa trên tinh thần Samurai (võ sĩ đạo). Đây là tinh thần của những chiến binh Nhật Bản truyền thống: không lùi bước trước bất kỳ trận chiến nào và sẵn sàng chấp nhận cái chết vì danh dự và nghĩa vụ.

Trận Vịnh Leyte

Tàu tuần dương hạng nặng Australia, tháng 9 năm 1944.

Theo các nhân chứng kể lại, tàu Đồng minh đầu tiên bị kamikaze tấn công là kỳ hạm của Hải quân hoàng gia Úc, tuần dương hạm hạng nặng Australia, ngày 21 tháng 10 năm 1944[2]. Cuộc tấn công này có vẻ như một cuộc tấn công tự phát, được thực hiện bởi một phi công không thuộc biệt đội của Onishi. Phi công này có lẽ là một phi công của Không lực Hoàng gia Nhật Bản (IJAAF) từ Lữ đoàn bay số 6, lái một chiếc Mitsubishi Ki-51 ("Sonia")[3]. Cuộc tấn công diễn ra gần đảo Leyte; với xạ thủ từ tàu Australia và tàu bạn Shropshire bắn súng phòng không trúng 3 máy bay Nhật. Một chiếc khác bay vòng đi, rồi quay lại và bay thẳng vào tàu Australia, đánh trúng thượng tầng tàu trên đài chỉ huy, làm bắn tung dầu và mảnh vỡ khắp nơi trước khi rơi xuống biển. Ít nhất có 30 thủy thủ bị chết, trong đó có cả sĩ quan chỉ huy Australia, Thuyền trưởng Emile Dechaineux; trong số người bị thương là Phó Đề đốc John Collins, chỉ huy lực lượng Úc. May mắn cho chiếc tàu Úc là quả bom nặng 200 kg mà chiếc máy bay chở theo không phát nổ (Chiếc Australia được sửa chữa và trở lại tác chiến trong trận Vịnh Lingayen tháng 1 năm 1945. Tuy nhiên, trong khoảng từ 5-9 tháng 1/1945, tàu này bị kamikaze đánh năm lần, bị thương tích phải rút lui một lần nữa, mất 70 thủy thủ[2]).

Một chiếc Mitsubishi Zero (A6M5 Model 52) lao thẳng vào tàu sân bay hộ tống White Plains ngày 25 tháng 10 năm 1944. Chiếc máy bay này nổ tung trên không, văng mảnh vỡ trên khắp sàn tàu.Xác một chiếc Yokosuka D4Y "Judy" trên tàu sân bay hộ tống Kitkun Bay. Chiếc Judy này định đánh vào góc chết phía sau tàu, nhưng bị trúng đạn phòng không và nổ tung trên không.

Ngày 24 tháng 10, biệt đội Kamikaze của Onishi chính thức xuất trận lần đầu tiên. Chiếc tàu kéo Sonoma 1.120 tấn trở thành tàu đầu tiên bị kamikaze đánh chìm[4] ngoài đảo Dio, trong vịnh San Pedro, thuộc Vịnh Leyte.

Năm chiếc Zero, dẫn đầu bởi Seki, được hộ tống bởi phi công giỏi nhất Nhật Bản Hiroyoshi Nishizawa, tấn công mấy tàu sân bay hộ tống. Một chiếc Zero định tấn công vào đài chỉ huy của chiếc Kitkun Bay nhưng lại đánh trượt và bổ nhào xuống biển. Hai chiếc khác bổ nhào vào tàu Fanshaw Bay nhưng bị hỏa lực phòng không tiêu diệt. Hai chiếc cuối cùng xông vào chiếc White Plains, nhưng một chiếc bị hỏa lực bắn rát và bốc khói, bỏ mục tiêu mà đâm vào chiếc tàu sân bay hộ tống St. Lo, nó cắm vào boong tàu, làm quả bom mang theo phát nổ làm nổ tung kho chứa bom, đánh chìm tàu sân bay này và giết chết 114 thủy thủ[5]. Tàu Australia bị tấn công tiếp ngày 25 tháng 10 và buộc phải rút về New Hebrides để sửa chữa.

Tới cuối ngày 26 tháng 10, 55 kamikaze từ lực lượng đặc nhiệm đã đánh chìm 1 tàu tàu sân bay hộ tống St. Lo, đánh bị thương các tàu sân bay hộ tống lớn Sangamon, Suwannee, Santee và tàu sân bay hộ tống nhỏ White Plains, Kalinin Bay và Kitkun Bay. Tổng cộng có 7 hàng không mẫu hạm bị đánh trúng, cộng với khoảng 40 tàu khác (5 chiếc bị chìm, 23 bị thương nặng, 12 bị thương nhẹ). Hiệu suất chiến đấu của kamikaze rõ ràng là rất cao, và thành tích này khuyến khích quân Nhật tung ra các đợt kamikaze tiếp theo.

Từ ngày 27/10 tới 1/11, 2 tàu sân bay cỡ lớn thuộc lớp Essex (Intrepid, Franklin), tàu sân bay hạng nhẹ USS Belleau Woods đã bị Kamikaze đánh hỏng nặng, ngoài ra có 1 tàu khu trục bị đánh chìm, 3 tàu khu trục và 1 tàu vận tải bị đánh hỏng nặng. Ngày 5/11, tàu sân bay cỡ lớn Lexington bị Kamikaze đánh hỏng nặng.

Giai đoạn ác liệt

Các thắng lợi ban đầu, nhất là sau việc đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo, chương trình Kamikaze được mở rộng, với việc chỉ trong mấy tháng tiếp đó, có đến hơn 2 ngàn máy bay được sử dụng trong các phi vụ cảm tử.

Khi chính quốc Nhật Bản bắt đầu bị pháo đài bay chiến lược B-29 ném bom, bộ máy quân sự Nhật quyết định sử dụng các cuộc tấn công cảm tử để đáp lại. Tại bán cầu bắc trong mùa đông 1944-45, IJAAF thành lập trung đoàn bay số 47, còn được biết đến là đơn vị đặc nhiệm Shinten (Shinten Seiku Ta) tại sân bay Narimasu, Nerima, Tokyo, để bảo vệ Tokyo. Đơn vị này được trang bị chiến đấu cơ Nakajima Ki-44 Shoki ("Tojo"), với mục tiêu đâm thẳng vào các siêu pháo đài bay B-29 khi chúng tấn công Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này tỏ ra khó thành công và không thực tiễn khi các máy bay B-29 bay nhanh hơn, cơ động hơn và nhỏ hơn tàu chiến rất nhiều. Các máy bay B-29 cũng được trang bị hỏa lực đáng gờm, nên việc tấn công cảm tử vào các pháo đài bay này cần các phi công lão luyện. Điều này trái ngược với nguyên tắc chủ đạo là sử dụng các phi công có thể thay thế được, và khuyến khích các phi công giỏi nhảy dù trước khi máy bay của họ lao vào địch quân, vì các phi công giỏi thường hy sinh khi họ tính thời gian nhảy dù sai, và bị chết khi máy bay đâm vào địch.

Một máy bay kamikaze đâm trúng phía giữa sàn đáp chiếc USS EssexChiếc Yokosuka D4Y (Kiểu 33) do Trung úy Yamaguchi điều khiển đang bổ nhào xuống tàu sân bay USS Essex; ngày 25/11/1944. Bình xăng không tự hàn kín bên trái đang tuôn ra hơi xăng và khói.

Các đô đốc Mỹ bắt đầu nhận thấy sự nguy hiểm của chiến dịch Kamikaze trong khi phía Nhật lại xem đây là bước ngoặt của cuộc chiến. Ngày 25 tháng 11 năm 1944, 35 kamikaze gây thiệt hại nặng nề cho 3 tàu sân bay cỡ lớn (Essex, Intrepid, Hancock), 1 tàu sân bay hạng nhẹ là USS Cabot cùng một số tàu chiến khác. Ngày 27 tháng 11 năm 1944, các Kamikaze làm thiệt hại thiết giáp hạm Colorado, 2 tuần dương hạm, và đánh chìm 1 tàu vận tải.

Đầu năm 1945 khi ở Châu Âu sự thất bại của phát xít Đức đã cận kề thì ở Thái Bình Dương, quân Nhật cũng đang gặp rất nhiều khó khăn với những đợt tấn công liên tục của quân Mỹ và trong hoàn cảnh đó chiến thuật Kamikaze vẫn được sử dụng. Tháng 4 năm 1945, Đô đốc Matome Ugaki chịu trách nhiệm phối hợp những cuộc tấn công đặc biệt để bảo vệ Okinawa, đã bố trí 700 xuồng cao tốc cảm tử Shinyo và một lượng lớn phi cơ ở Kyushu, trong đó có hàng ngàn chiếc Zero và oanh tạc cơ Nakajima Ki-43, Yokosuka D4Y "Judy" mang trên mình bom 250 kg hoặc 500 kg, có tầm bay ít nhất 1.200 km. Những máy bay Kamikaze được máy bay tiêm kích hộ tống bay ở tầm thấp và khi đến gần hạm đội Mỹ thì lao vọt lên độ cao 4.500 m rồi bất ngờ bổ nhào xuống nhắm vào những chiếc hàng không mẫu hạm.

Trong đêm ngày 21/2/1945, 28 máy bay Nhật Bản đã thực hiện các cuộc tấn công Kamikaze vào hạm đội Mỹ trong trận Iwo Jima. Khoảng 17 giờ, 5 máy bay Kamikaze lao vào chiếc hàng không mẫu hạm Saratoga. Ba chiếc đã đâm trúng Saratoga và nổ tung, làm hư hại nặng con tàu, giết chết 129 người và làm bị thương 192 người. 2 chiếc Kamikaze khác vượt qua được lưới lửa phòng không nhờ bay sát mặt nước đã đâm vào hàng không mẫu hạm hộ tống cỡ nhỏ USS Bismarck Sea. Bốn quả ngư lôi trên tàu nổ tung, tàu chìm sau 15 phút với tổn thất nhân mạng 318 người, đây là chiếc tàu sân bay Hoa Kỳ cuối cùng bị chìm trong Thế Chiến II. Ngoài ra, cuộc tấn công này còn gây hư hại nặng cho tàu vận tải Keokuk AKN-4 (17 người chết, 44 bị thương), gây thiệt hại nhẹ cho hàng không mẫu hạm hộ tống USS Lunga Point (11 người bị thương), một tàu chở quân số hiệu LST-477 (9 người chết, 5 bị thương).

Ngày 6 tháng 4 năm 1945, 355 Kamikaze đã tham gia một cuộc tấn công lớn và hạm đội Mỹ đã kịp tiêu diệt 250 chiếc trước khi chúng lao vào mục tiêu. Những chiếc còn lại đã đánh hỏng nặng hàng không mẫu hạm Hancock, đánh đắm 2 tàu vận tải xung kích lớn và làm hư hại thiết giáp hạm Maryland và nhiều tàu khu trục. Ngày 12 tháng 4 năm 1945, 185 chiếc Kamikaze có 135 chiếc tiêm kích đi kèm đã mở cuộc tấn công mới nhưng kết quả của lần xuất kích này không đáp ứng được kì vọng của quân đội Nhật.

Yokosuka MXY7 Ohka tại Viện Bảo tàng Khoa học và Công nghệ tại Manchester.

Ngoài các phi cơ chiến đấu và máy bay ném bom được chuyển thành kamikaze, từ tháng 3 năm 1945, trong trận chiến còn xuất hiện loại máy bay Yokosuka MXY7 Ohka, thực chất là một loại hỏa tiễn có người lái, phóng đi từ máy bay mẹ. Quân Mỹ gọi nó là "Baka" (baka nghĩa là "thằng ngốc" trong tiếng Nhật). Một loại thiết bị bay khác là Nakajima Ki-115 Tsurugi chỉ gồm một động cơ đẩy đơn giản lắp trên khung bằng gỗ, dễ sản xuất, mục tiêu là để sử dụng hết số động cơ còn tồn kho. Trong năm 1945, quân lực Nhật bắt đầu tích trữ hàng ngàn máy bay loại Tsurugi, Ohka, và các xuồng cao tốc cảm tử để chuẩn bị đánh trả cuộc đổ bộ của Đồng Minh, nhưng cuộc đổ bộ rút cuộc không diễn ra, và chỉ có rất ít số vũ khí cảm tử này được sử dụng.

Đồng Minh phòng vệ

Đầu năm 1945, thiếu tá John Thach, sĩ quan điều hành không chiến của Hải quân Hoa Kỳ, người nổi tiếng qua việc phát minh ra một chiến thuật không chiến rất hiệu quả chống lại không quân Nhật, phát triển chiến thuật chống kamikaze.[6] Theo chiến thuật này, phi cơ sẽ tuần tra suốt ngày đêm xung quanh hạm đội Đồng Minh. Tuy nhiên, vì Hải quân Hoa Kỳ cắt giảm chương trình huấn luyện phi công chiến đấu, nên Hải quân không có đủ phi công để chống lại hiểm họa từ kamikaze.

Khói đạn phòng không từ tàu Louisville tuyệt vọng bắn lên trước khi bị kamikaze đánh trúng trong Trận Vịnh Lingayen, tháng 1 năm 1945.

Thiếu tá Thach cũng đề xuất sử dụng một lực lượng phi cơ chiến đấu tuần tiễu lớn (CAP), bay xa hơn trước để bảo vệ các hàng không mẫu hạm; sử dụng máy bay tăng cường ném bom các sân bay Nhật, bỏ bom đường băng với bom nổ chậm để ngăn cản Nhật sửa chữa đường băng, sử dụng lực lượng cảnh giới gồm các tàu khu trục và tàu hộ tống đặt các hạm đội chính ít nhất 80 km để sớm phát hiện và phối hợp tác chiến giữa các sĩ quan chỉ huy phi cơ trên hàng không mẫu hạm.

Từ cuối năm 1944, Hạm đội Anh đã sử dụng các máy bay tầm cao Supermarine Seafire để tuần tiễu rất có hiệu quả. Các máy bay này được dùng thường xuyên để ngăn ngừa Kamikaze tấn công trong trận Iwo Jima. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, các máy bay Seafire giành được thắng lợi lớn khi hạ được 8 máy bay địch mà chỉ mất duy nhất một máy bay.

Về cuối cuộc chiến, tổn thất của phe Đồng Minh đã giảm đi, dù sử dụng thêm rất nhiều tàu bè và bị tấn công dữ dội hơn. Việc chỉ được huấn luyện sơ sài và máy bay không mang vũ khí không chiến khiến nên phi công kamikaze trở thành mồi ngon cho các phi công Đồng Minh lão luyện, được trang bị máy bay tốt hơn. Hơn thế nữa, chỉ riêng Hạm đội Đặc nhiệm Hoa Kỳ đã có thể ném vào trận chiến hơn một ngàn phi cơ. Phi công Đồng minh trở nên hữu hiệu trong việc tiêu diệt phi cơ đối phương trước khi chúng kịp đâm vào tàu chiến. Lính thủy trên các tàu Đồng Minh cũng phát triển các kỹ thuật chống kamikaze, như bắn đại pháo xuống mặt biển trước các phi cơ địch bay thấp gần mặt nước biển, tạo thành các cột nước lớn trùm lên phi cơ địch để khiến chúng bị mất điều khiển và rơi. Nếu chiến thuật này không thể sử dụng chống lại Ohka và các cuộc tấn công tầm cao, thì họ sử dụng pháo phòng không. Từ năm 1945, quân Mỹ đã sử dụng một lượng lớn đạn pháo phòng không cỡ 76mm và 127mm sử dụng ngòi nổ gần (phát nổ khi tới gần mục tiêu), chính xác hơn loại đạn thường đến bảy lần.

Sự kết thúc

Những trận chiến ở Okinawa đã kết thúc vào ngày 22 tháng 6 năm 1945 với thất bại của quân đội Nhật và Đô đốc Nhật Ushijima đã mổ bụng tự sát (harakiri) theo truyền thống Nhật Bản. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, những người lính Nhật bàng hoàng khi nghe tin Nhật hoàng Hirohito đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cùng ngày hôm đó, Đô đốc Ugaki, tư lệnh hạm đội 5 ở Kyushu cùng với 10 phi công cảm tử bay về hướng Okinawa và trước khi mất hút đã gửi lại một thông điệp bày tỏ niềm tin về sự bất tử của đế chế và tinh thần Kamikaze.

Tổng kết trong trận Okinawa, trong 1.900 phi vụ cảm tử, các Kamikaze đã đánh đắm khoảng 30 tàu chiến Mỹ, làm thiệt hại gần 300 chiếc khác và 4.907 lính hải quân Mỹ đã tử trận. Từ đó có thể thấy những cuộc tấn công cảm tử này đã mang lại hiệu quả cao hơn những cuộc tấn công thông thường và Đô đốc Onischi đã nói về giai đoạn Kamikaze như sau: "Dù có hiệu quả hay không thì những cuộc tấn công đó cũng cho thế giới và cả chúng ta hình ảnh của chủ nghĩa anh hùng, của lòng tự hào và đảm bảo sự tồn tại của di sản tinh thần chúng ta."[cần dẫn nguồn]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thần_phong http://www.ww2australia.gov.au/waratsea/kamikaze.h... http://www.j-aircraft.com/research/rdunn/hms_aust/... http://wgordon.web.wesleyan.edu/kamikaze/backgroun... http://wgordon.web.wesleyan.edu/kamikaze/books/gen... http://wgordon.web.wesleyan.edu/kamikaze/writings/... http://www.kamikazeimages.net/monuments/akita/inde... http://www.kamikazeimages.net/writings/shimizu-kun... http://rwebs.net/dispatch/output.asp?ArticleID=49 http://www.navsource.org/archives/02/17.htm //www.worldcat.org/oclc/105915